Tọa đàm "Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam : Thị trường và các vấn đề chính sách"

28/04/2022 | Tin sự kiện
Ngày 26/04/2022, Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển truyền thông (IPS) đã tổ chức Tọa đàm ‘Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam: Thị trường và các vấn đề chính sách’ theo hình thức trực tiếp tại Hà Nội kết hợp với trực tuyến qua nền tảng Zoom Meetings.

Chia sẻ

Khách mời tham dự Tòa đàm bao gồm ông Nguyễn Quang Huân - Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội nước sạch và môi trường Việt Nam; ông Nguyễn Sĩ Dũng - Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; ông Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư;PGS.TS Vũ Sỹ Cường - Kinh tế trưởng Viện Công nghệ và phát triển tài chính, Học viện Tài chính; bà Đỗ Thanh Huyền - Chuyên gia phân tích chính sách công, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP); ông Trần Anh Tuấn - Phó chủ tịch Hiệp hội cấp, thoát nước Việt Nam; ông Ngô Văn Đức - Phó Giám đốc Công ty nước sạch số 2 Hà Nội. Bên cạnh đó, Tọa đàm cũng có sự tham gia của đại diện các tổ chức truyền thông, phóng viên và nhà báo đến từ các hãng tin tức trong nước.
Ảnh: Tọa đàm “Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam: Thị trường và các vấn đề chính sách”, Nguồn: IPS
Phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Quang Đồng – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền Thông (IPS) đã đánh giá bước đầu về quyền tiếp cận nước sạch và thị trường nước sạch ở Việt Nam. Ông cho biết, theo báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ hộ tiếp cận nước máy chỉ chiếm khoảng 52%. Đặc biệt, xem xét tỷ lệ này giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc có thể thấy sự chênh lệch rất lớn khi tỷ lệ hộ gia đình tại thành thị tiếp cận được nước máy đạt 84,2% trong khi tại nông thôn chỉ đạt 34,8%.
Chia sẻ tiếp nối về vấn đề này, bà Đỗ Thanh Huyền - Chuyên gia phân tích chính sách công, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho biết theo khảo sát PAPI từ 2016 đến 2020 phỏng vấn trên 14000 người mỗi năm, tỉ lệ người dân được sử dụng nước sạch mới chỉ có 62% trong khi tỉ lệ tiêp cận điện là 98%. Bên cạnh đó, có sự chênh lệch đáng kể giữa tỉ lệ người dân tộc Kinh và người dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch. Điều đáng báo động là tỉ lệ tiếp cận nước sạch gần nhà để uống đang giảm dần và có xu hướng đi xuống sâu hơn, chỉ 4.5% vào năm 2020.
Từ thực tế bất bình đẳng trong tiếp cận nước sạch, các khách mời phân tích về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và nhất trí rằng nguyên nhân nào từ chính sách sẽ tiến tới hoàn thiện chính sách cho lĩnh vực cấp nước sạch.
Thứ nhất là quy định về giá nước. Giá nước sạch được Bộ Tài chính quy định khung giá, phương thức tính giá, lợi nhuận định mức trên cả nước. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phê duyệt giá nước sạch tại địa phương không vượt quá khung giá do Bộ Tài chính quy định. Tùy thuộc vào đặc điểm từng địa phương, khu vực thành thị và nông thông mà giá nước sẽ khác nhau. Nhưng để đảm bảo quyền tiếp cận với dịch vụ công nước sạch thì giá cả phải phù hợp với khả năng chi trả của người dân theo quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng. Mặt khác, giá nước cũng phải cũng phải đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp cung cấp để họ có động lực tham gia vào thị trường, ông Đồng cho hay. Đồng tình với ý kiến của ông Đồng, ông Ngô Văn Đức khẳng định rằng dù nhà nước hay tư nhân tham gia cung cấp nước sạch cũng phải đảm bảo không thất thoát vốn, nhà nước phải bảo toàn vốn nhà nước, tư nhân phải bảo toàn vốn tư nhân.
Thứ hai là sự phân mảnh trong vai trò điều tiết – quản lý nhà nước. Theo Ông Nguyễn Quang Huân, ngành nước hiện nay đang do 06 bộ ngành quản lý và chỉ có 01 văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch là Nghị định 117/2007/NĐ-CP. Việc quá nhiều đầu mối cùng tham gia quản lý khiến các việc lập dự toán đầu tư mới của các doanh nghiệp trong ngành gặp nhiều trở ngại. Ngoài ra, cơ chế hợp tác giữa nhà đầu tư tư nhân và doanh nghiệp nhà nước cũng chưa được quy định rõ khiến thị trường chưa có sự tổ chức mạch lạc, tính cạnh tranh và độ minh bạch còn thấp.
Thứ ba là cấu trúc thị trường gắn với vai trò của chủ thể công và chủ thể tư trong cung cấp nước sạch. Hiện nay, ở khâu sản xuất và phân phối nước sạch, đều có sự tham gia của cả khu vực công và khu vực tư và “lẫn lộn” trách nhiệm công, tư trong đảm bảo cấp nước sạch cho người dân. Ai chịu trách nhiệm chính đảm bảo an toàn nguồn nước đầu nguồn cho sản xuất nước sạch? Toàn bộ hệ thống đường ống phân phối nước là tài sản công hay tài sản tư? Tại sao lại có tình trạng người dân nông thôn phải đóng góp tiền để xây dựng đường ống, lắp đặt đồng hồ nước cho công ty cấp nước nếu họ muốn dùng nước sạch trong khi người dân ở khu vực đô thị thì không?
Ảnh: Ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội phát biểu ý kiến tại tọa đàm. Nguồn: IPS.
Từ các bất cập đã nêu ra, các diễn giả cho rằng cần một văn bản luật quản lý hoạt động cấp nước sạch. Ông Nguyễn Quang Đồng khuyến nghị, cần có đánh giá toàn diện và thiết kế một hệ thống chính sách tổng thể để hoàn chỉnh thị trường kinh doanh nước sạch. Tiến trình này gắn liền với việc xây dựng Luật về cấp nước và xử lý nước mà Chính phủ đã yêu cầu Bộ Xây dựng đang triển khai.
Về vấn đề này, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cho rằng, thị trường dịch vụ nước sạch còn nhiều vấn đề chưa hoàn chỉnh, từ khâu tổ chức đến khâu điều tiết, vận hành thị trường. Do đó, ông Nguyễn Đình Cung đề xuất, nên có một luật riêng cho thị trường nước, điều chỉnh không chỉ vấn đề cấp nước mà cả vấn đề xử lý nước sinh hoạt. “Tương tự như ngành điện có Luật Điện lực, cần có một văn bản ở cấp độ luật để tạo lập khuôn khổ thống nhất, minh bạch cho thị trường nước sạch”, TS Nguyễn Đình Cung khuyến nghị. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân cũng cho rằng “Một văn bản như Luật là cần thiết và Chính phủ nên sớm đề xuất để Quốc hội xem xét. Cùng với đó, cơ chế, chính sách cần được quản lý đồng bộ, hiệu quả từ cấp Trung ương đến cấp địa phương và phải được giám sát thực thi hiệu quả. Ngoài ra, việc đảm bảo phòng chống ô nhiễm nguồn nước cũng đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn nguồn nước”.